(Thanhhoa.dcs.vn): Vừa qua, Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hoá đã phối hợp với Ban Chính sách, Chiến lược Trung ương chuẩn bị nội dung phục vụ xây dựng Đề án sơ kết 5 năm thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị “Về định hướng Chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045”. Cổng thông tin điện tử Tỉnh ủy Thanh Hóa giới thiệu nội dung chuyên đề: “Năng lượng gắn với phát triển kinh tế - xã hội tại Thanh Hóa - Thực trạng và giải pháp”.

Ủy ban nhân dân tỉnh Thanh Hóa làm việc với Tập đoàn năng lượng Gulf, Thái Lan. Ảnh: LVC

Tỉnh Thanh Hóa có diện tích tự nhiên 11.114,7 km2 (đứng thứ 5 cả nước), dân số trên 3,76 triệu người (đứng thứ 3 cả nước); có 102 km bờ biển, 213 km đường biên giới với nước bạn Lào; có 26 huyện, thị xã, thành phố (2 thành phố, 2 thị xã và 22 huyện), 547 xã, phường, thị trấn. Có vị trí chiến lược đặc biệt quan trọng về kinh tế - xã hội, quốc phòng - an ninh, cầu nối trung chuyển giữa Bắc bộ với Trung bộ và là vùng Tây Bắc nối dài, điểm dừng chân trên đường hàng hải quốc tế; là cửa ngõ thông thương ra biển gần nhất của khu vực phía Tây Tây Bắc nước ta và Đông Bắc Lào. Với vị trí địa lý thuận lợi, tài nguyên khoáng sản, đa dạng, cùng với bờ biển dài, lượng gió lớn phù hợp với phát triển năng lượng gắn với phát triển kinh tế - xã hội bền vững.

Nhận thức được vai trò và tầm quan trọng của năng lượng đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh; trong những năm qua, lĩnh vực công nghiệp năng lượng được xác định là một trong những nhiệm vụ có ý nghĩa quan trọng, tạo điều kiện để tỉnh bứt phá phát triển kinh tế - xã hội. Nghị quyết số 58-NQ/TW ngày 05/8/2020 của Bộ Chính trị về xây dựng và phát triển tỉnh Thanh Hóa đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045 và Quyết định số 153/QĐ-TTg ngày 27/02/2023 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch tỉnh Thanh Hóa thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2045 đã đề ra mục tiêu đến năm 2030: “Thanh Hóa trở thành một trong những trung tâm lớn của Vùng Bắc Trung Bộ và cả nước về công nghiệp năng lượng”.  

Lãnh đạo tỉnh Thanh Hóa trao quà lưu niệm cho lãnh đạo Tập đoàn năng lượng Gulf, Thái Lan. Ảnh: LVC

I. Thực trạng phát triển năng lượng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

1. Về dầu khí

- Sản xuất, chế biến dầu khí: Trên địa bàn tỉnh hiện có Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn, có tổng vốn đầu tư 9,3 tỉ USD đã được đầu tư xây dựng và đi vào hoạt động từ tháng 11/2018 với công suất thiết kế chế biến 10 triệu tấn dầu thô/năm; các sản phẩm chủ yếu: xăng các loại, dầu diesel các loại, sáp parafin, benzen, lưu huỳnh... Sản lượng các sản phẩm lọc hóa dầu được sản xuất năm 2019 đạt 5.488 nghìn tấn; năm 2020 đạt 7.270 nghìn tấn; năm 2021 đạt 7.491 nghìn tấn; năm 2022 đạt 8.196 nghìn tấn; năm 2023 đạt 8.058 nghìn tấn; năm 2024 đạt 11.240 nghìn tấn, đáp ứng khoảng 40% tổng nhu cầu tiêu thụ xăng dầu trong nước. Đồng thời, việc Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn đi vào vận hành ổn định, góp phần thúc đẩy các ngành công nghiệp phụ trợ và sau lọc hóa dầu, các ngành dịch vụ phát triển và bảo đảm an ninh năng lượng quốc gia.

- Hệ thống lưu trữ và cung ứng xăng dầu: Đến nay, toàn tỉnh có 09 kho chứa xăng, dầu với tổng sức chứa 784.850 m3 (gồm: 06 kho đang hoạt động và 03 kho ngừng hoạt động)[1]; ngoài ra, còn có 05 dự án kho xăng dầu, tổng sức chứa 161.900 m3 đã được chấp thuận chủ trương đầu tư và đang triển khai thủ tục đầu tư xây dựng[2]. Mạng lưới kinh doanh bán lẻ xăng, dầu phát triển rộng trên toàn tỉnh với 602 cửa hàng kinh doanh xăng dầu thuộc 351 doanh nghiệp đang hoạt động (gồm: 587 cửa hàng cố định và 15 tàu dầu hoạt động trên sông, biển); sản lượng phân phối xăng, dầu bình quân hằng năm trên địa bàn tỉnh từ 1 - 1,2 triệu m3, đáp ứng đủ nhu cầu sản xuất và tiêu dùng trên địa bàn tỉnh.

Kho chứa xăng, dầu của Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn. Ảnh: LVC

- Hệ thống kho dự trữ dầu thô, khí đốt: Trên địa bàn tỉnh hiện có 01 kho khí dầu mỏ hóa lỏng (LPG) của Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn với sức chứa khoảng 3.000 tấn đang hoạt động; có 02 bể chứa khí thiên nhiên hóa lỏng (LNG) với tổng dung tích 2.000 m3 và 01 kho đầu mối LPG với sức chứa 2.400 tấn đã được chấp thuận chủ trương đầu tư và đang thực hiện thủ tục đầu tư xây dựng. Bên cạnh đó, để triển khai thực hiện Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050 theo Quyết định số 861/QĐ-TTg ngày 18/7/2023 của Thủ tướng Chính phủ; tỉnh Thanh Hóa đang tích cực phối hợp với Bộ Công Thương và các cơ quan liên quan để nghiên cứu lựa chọn, bố trí quỹ đất đầu tư xây dựng Kho dự trữ dầu thô quốc gia công suất 01 triệu tấn và Kho dự trữ LNG với quy mô công suất lên đến 04 triệu tấn.

2. Về năng lượng điện

2.1. Sản xuất điện: Tỉnh Thanh Hóa đã đẩy mạnh khuyến khích, phát triển các nguồn năng lượng để phát triển kinh tế - xã hội, nhất là nguồn năng lượng tái tạo nhằm thay thế tối đa các nguồn năng lượng hoá thạch; toàn tỉnh có 39 dự án nguồn điện và nguồn điện tiềm năng[3] đã được bổ sung vào các quy hoạch phát triển điện lực với tổng công suất 5.509,2 MW. Trên địa bàn tỉnh hiện có 17 nhà máy điện đang vận hành phát điện lên lưới điện quốc gia với tổng công suất 2.473,8 MW[4]; tốc độ tăng sản lượng điện sản xuất hằng năm giai đoạn 2021 - 2024 đạt 21,3%; sản lượng điện sản xuất năm 2024 đạt 12,96 tỷ kWh, gấp 2,1 lần so với năm 2021, cụ thể từng loại hình nhà máy phát điện như sau:

- Thủy điện: Đã tạo điều kiện để phát huy tối đa các nguồn thuỷ điện hiện có; phát triển có chọn lọc một số thuỷ điện nhỏ[5]. Đến nay, toàn tỉnh có 24 dự án thủy điện, tiềm năng thủy điện với tổng công suất 982,2 MW đã được quy hoạch, trong đó: có 11 dự án đã đi vào vận hành[6] với công suất 607,7 MW; 03 dự án đang thi công xây dựng[7] với công suất 128 MW; 10 dự án chưa triển khai xây dựng[8] với công suất 246,5 MW. Nhìn chung, các nhà máy thủy điện hoạt động tương đối ổn định, hiệu quả; hàng năm cung cấp sản lượng điện lên hệ thống điện quốc gia từ 1,8 - 2,5 tỷ KWh, chiếm gần 30% sản lượng điện toàn tỉnh.

- Nhiệt điện: Trên địa bàn tỉnh có 03 dự án với tổng công suất 2.400 MW được quy hoạch; trong đó, có nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 1 (600 MW) và Nhiệt điện Nghi Sơn 2 (1.200 MW) đã vận hành phát điện; dự án Nhà máy Nhiệt điện Công Thanh (600 MW) đang báo cáo cấp thẩm quyền xem xét, cho phép chuyển đổi sang sử dụng nhiên liệu khí LNG và nâng công suất lên 1.500 MW.

Các kỹ sư của Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 2. Ảnh: LVC

- Nhiệt điện sử dụng khí LNG: Đã được quy hoạch và đưa vào kế hoạch thực hiện 01 dự án Nhiệt điện LNG Nghi Sơn với công suất 1.500 MW tại Khu kinh tế Nghi Sơn; hiện tại, tỉnh Thanh Hóa đang hoàn thành các thủ tục để lựa chọn nhà đầu tư triển khai thực hiện dự án.

- Điện mặt trời: Trên địa bàn tỉnh có 03 dự án nhà máy điện mặt trời với tổng công suất 235 MW đã được phê duyệt quy hoạch, bao gồm: Nhà máy Điện mặt trời Yên Thái, huyện Yên Định (30 MW) đã vận hành; dự án Nhà máy Điện mặt trời Thanh Hóa I, thị xã Nghi Sơn (160 MW) đang thực hiện đầu tư; còn lại dự án Điện mặt trời Kiên Thọ, huyện Ngọc Lặc (45 MW) đã thu hồi chủ trương đầu tư do dự án triển khai chậm tiến độ theo yêu cầu. Ngoài ra, toàn tỉnh có 613 hệ thống Điện mặt trời mái nhà với tổng công suất khoảng 59,77 MW đã được lắp đặt, hiện đang vận hành ổn định.

- Điện gió: Trên địa bàn tỉnh có 02 dự án đã bổ sung quy hoạch điện lực và kế hoạch thực hiện trong giai đoạn 2026 - 2030 với tổng công suất 300 MW, gồm: Điện gió Bắc Phương (100 MW) tại Khu kinh tế Nghi Sơn và Điện gió Mường Lát (200 MW) tại huyện Mường Lát đang hoàn thành các thủ tục để lựa chọn nhà đầu tư triển khai thực hiện.

- Điện sinh khối, từ rác thải, điện tận dụng nhiệt dư: Có 06 dự án đã được bổ sung quy hoạch phát triển điện lực và kế hoạch thực hiện, gồm: Nhà máy đốt rác thải sinh hoạt phát điện tại phường Đông Sơn, thị xã Bỉm Sơn (18 MW), đang được đầu tư xây dựng và các nhà máy: Điện sinh khối Như Thanh (10 MW), Nhà Điện rác Thọ Xuân (12 MW), Điện rác Nghi Sơn (20 MW), 02 hệ thống phát điện tận dụng nhiệt dư của Nhà máy xi măng Bỉm Sơn (14 MW) và Nhà máy xi măng Nghi Sơn (18 MW).

Ngoài ra, một số cơ sở công nghiệp trọng điểm trên địa bàn tỉnh cũng đã trang bị các hệ thống nguồn phát điện tự dùng, nhằm tăng hiệu quả sử dụng năng lượng, như: Nhà máy Lọc hóa dầu Nghi Sơn có hệ thống nhiệt điện tự dùng công suất 349,4 MW; các hệ thống phát điện tận dụng nhiệt dư với tổng công suất 55,2 MW gắn với dây chuyền sản xuất của các nhà máy xi măng: Long Sơn, Công Thanh, Đại Dương; hệ thống điện sinh khối từ bã mía của Nhà máy đường Việt Đài có công suất 10 MW. Bên cạnh đó, các cơ sở công nghiệp trên địa bàn đang đẩy mạnh đầu tư, phát triển hệ thống điện mặt trời áp mái theo hình thức tự sản, tự tiêu, qua đó giảm tiêu thụ điện năng từ lưới điện quốc gia, nâng cao hiệu quả sản xuất, xanh hóa sản phẩm.

2.2. Về hệ thống điện

Trên địa bàn tỉnh hiện có 345,74 km đường dây 500 kV; 443,6 km đường dây 220 kV; 1.084,78 km đường dây 110 kV; 9.768 km đường dây trung áp và 17.500 km đường dây hạ áp. Có 02 TBA 500kV, tổng công suất 2.100 MVA; 05 TBA 220 kV với tổng công suất 2.250 MVA; 44 TBA 110 kV tổng công suất 3.355,5 MVA; 14 TBA trung gian với tổng công suất 121,4 MVA và 10.230 TBA phân phối với tổng công suất 3.660 MVA. Tốc độ tăng sản lượng điện thương phẩm bình quân hằng năm giai đoạn 2021 - 2024 đạt 10,3%; sản lượng điện năng thương phẩm năm 2024 đạt khoảng 9,33 tỷ kWh, gấp 1,32 lần so với năm 2021, đáp ứng tốt nhu cầu cung cấp điện ổn định phục vụ sản xuất kinh doanh và sinh hoạt của người dân, nhất là đối với các khu công nghiệp, cụm công nghiệp, các nhà máy, cơ sở sản xuất tại các trung tâm động lực, hành lang kinh tế của tỉnh.

Việc hiện đại hóa hệ thống điện, số hóa, chuyển đổi số, áp dụng khoa học, công nghệ vào vận hành và quản lý lưới điện được chú trọng. Đến nay, 100% trạm biến áp 110 kV là trạm biến áp không người trực, điều khiển, giám sát, thu thập số liệu từ xa; hệ thống lưới điện trung áp đã có 442 thiết bị đóng cắt được kết nối về Trung tâm điều khiển từ xa để theo dõi, vận hành, thao tác từ xa; từ năm 2021 đến nay, đã ứng dụng công nghệ mới đưa vào vận hành tự động hóa 34 mạch vòng trung áp tại các địa phương, thực hiện cung cấp 100% dịch vụ điện trực tuyến tương đương dịch vụ công cấp độ 4, tỷ lệ khách hàng thanh toán tiền điện không sử dụng tiền mặt đạt 96,91%. Cùng với đó, công tác ngầm hóa lưới điện tại các thành phố, thị xã, khu vực đô thị được đẩy mạnh, toàn tỉnh đã có trên 250 km cáp điện trung thế được ngầm hóa, góp phần bảo đảm mỹ quan và an toàn điện.

2.3. Về công tác tiết kiệm điện

Các đơn vị sản xuất đã triển khai hiệu quả các giải pháp sử dụng điện tiết kiệm như: sử dụng đúng công suất và biểu đồ phụ tải; thực hiện kế hoạch sản xuất hợp lý, hạn chế tối đa việc huy động các thiết bị, máy móc có công suất tiêu thụ điện lớn vào giờ cao điểm; thay thế hệ thống điện chiếu sáng sang bóng đèn compact, đèn Led; lắp đặt hệ thống điện mặt trời trên nhà xưởng,... Chú trọng đổi mới công nghệ, tăng cường các sáng kiến hợp lý hóa sản xuất để tiết kiệm điện; hiện nay, 100% các nhà máy sản xuất xi măng trên địa bàn tỉnh đã và đang đầu tư xây dựng hệ thống phát điện tận dụng nhiệt dư, qua đó giảm đến 30-40% nhu cầu từ lưới điện. Tổ chức triển khai thực hiện Chương trình điều chỉnh phụ tải điện (DR), để khuyến khích khách hàng chủ động điều chỉnh hoặc thay đổi nhu cầu sử dụng điện trong giờ cao điểm, giảm công suất cực đại của hệ thống điện, giảm tình trạng quá tải, nâng cao hiệu quả hoạt động hệ thống điện; đến nay có 209/209 khách hàng tiêu thụ điện từ 1 triệu KWh/năm trở lên tham gia Chương trình điều chỉnh phụ tải điện (DR), đạt tỷ lệ 100%; tổng công suất cắt giảm phụ tải trong các khung giờ cao điểm nắng nóng lên đến 350 MW.

Từ năm 2021 đến nay, tổng sản lượng điện năng tiết kiệm trên địa bàn tỉnh ước đạt khoảng 650 triệu KWh; tỷ lệ tiết kiệm năng lượng trên tổng tiêu thụ năng lượng cuối cùng đạt bình quân gần 2%/năm.

3. Đóng góp của lĩnh vực công nghiệp năng lượng đối với phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa

Đến nay, tổng nguồn vốn đã thu hút vào lĩnh vực năng lượng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa đạt hơn 55.000 tỉ đồng và 13 tỉ USD; trong đó, một số dự án quy mô lớn, trọng điểm của tỉnh như: Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn (có tổng mức đầu tư khoảng 9,3 tỉ USD)[9], Nhiệt điện BOT Nghi Sơn 2 (2,8 tỷ USD), Nhiệt điện Nghi Sơn 1 (22.260 tỷ đồng); Thủy điện Trung Sơn (7.775 tỷ đồng), Tổng kho xăng, dầu, khí hóa lỏng và dịch vụ hậu cần Anh Phát (3.800 tỷ đồng)... Các dự án hoàn thành, đi vào hoạt động tạo ra các sản phẩm ổn định, góp phần đảm bảo an ninh năng lượng, thúc đẩy phát triển kinh tế - xã hội của tỉnh Thanh Hóa  và của cả nước.

Một góc Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn. Ảnh: LVC

Giai đoạn 2021 - 2024, tốc độ tăng trưởng lĩnh vực công nghiệp năng lượng bình quân hằng năm trên địa bàn tỉnh đạt 21,47%, cao hơn tốc độ tăng trưởng chung ngành công nghiệp của tỉnh (16,83%) và tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) của tỉnh trong cùng giai đoạn 2021 - 2024 (10,06%); tỉ trọng lĩnh vực công nghiệp năng lượng trong tổng giá trị ngành công nghiệp tăng mạnh, từ 27,81% năm 2020 tăng lên 57,39% năm 2024 và chiếm khoảng 21,98% giá trị tổng sản phẩm (GRDP) trên địa bàn toàn tỉnh. Thu ngân sách nhà nước từ các dự án, sản phẩm lĩnh vực công nghiệp năng lượng bình quân hằng năm từ 25.000 đến 30.000 tỉ đồng, chiếm tỷ trọng gần 60% trong tổng thu ngân sách tỉnh (trong đó riêng Nhà máy lọc hoá dầu Nghi Sơn đã đóng góp vào thu ngân sách tỉnh hằng năm từ 20.000 đến 25.000 tỉ đồng). Bên cạnh đó, lĩnh vực công nghiệp năng lượng còn góp phần không nhỏ vào việc cải tạo, nâng cấp cơ sở hạ tầng kỹ thuật, như: đường giao thông, đường dây truyền tải điện, trường học, nhà văn hóa, công trình công cộng… Tổ chức sắp xếp lại dân cư đến các khu tái định cư để có cơ sở hạ tầng, đời sống tốt hơn, tạo ra nhiều việc làm, cải thiện đời sống Nhân dân.

4. Những tồn tại, hạn chế và nguyên nhân

4.1. Tồn tại, hạn chế

- Phát triển năng lượng hiện nay chưa tương xứng với tiềm năng, lợi thế của tỉnh. Việc kêu gọi, vận động, thu hút đầu tư các dự án phát triển năng lượng, nhất là năng lượng tái tạo, năng lượng mới như điện gió, điện mặt trời, điện sinh khối… còn hạn chế. Kết cấu hạ tầng phục vụ đầu tư, phát triển năng lượng còn thiếu và chưa đồng bộ.

- Tiến độ thực hiện một số dự án nguồn điện còn chậm[10]; việc cung ứng điện, nhất là ở khu vực nông thôn, miền núi, khu vực biên giới còn nhiều khó khăn. Hệ thống lưới điện còn xảy ra tình trạng quá tải cục bộ, một số nơi chất lượng điện áp không đảm bảo, đặc biệt vào thời điểm nắng nóng và giờ cao điểm; một số lưới điện khu vực có tỷ lệ tổn thất điện năng còn cao.

- Hệ thống kinh doanh xăng, dầu trên địa bàn tỉnh phân bố chưa đồng đều. Việc đầu tư xây dựng hệ thống trạm nạp điện cho xe ô tô, xe máy điện còn hạn chế, bất cập, chưa phục vụ tốt nhu cầu của người dân, nhất là ở địa bàn miền núi.

- Một bộ phận người dân, doanh nghiệp chưa tuân thủ đầy đủ các quy định về sử dụng năng lượng tiết kiệm, hiệu quả; còn tình trạng sử dụng các phương tiện, thiết bị, công nghệ lạc hậu, gây lãng phí năng lượng và ảnh hưởng xấu đến môi trường.

4.2. Nguyên nhân của tồn tại, hạn chế

- Về khách quan: Còn thiếu các cơ chế, chính sách ưu đãi của nhà nước thực sự hấp dẫn để thu hút các nguồn lực, các nhà đầu tư, doanh nghiệp đầu tư vào lĩnh vực năng lượng, nhất là năng lượng mới, năng lượng tái tạo; mặc dù Quy hoạch điện VIII đã đề ra các mục tiêu rõ ràng, nhưng kế hoạch tổ chức thực hiện và hệ thống cơ chế, chính sách hỗ trợ triển khai ban hành chậm, chưa đầy đủ hoặc thiếu đồng bộ.

- Về chủ quan: Công tác phối hợp giữa cấp chính quyền với các chủ đầu tư để tháo gỡ khó khăn, vướng mắc bố trí quỹ đất cho thực hiện một số công trình, dự án năng lượng chưa hiệu quả, ảnh hưởng tiến độ đầu tư dự án; một số chủ đầu tư dự án, công trình năng lượng có năng lực yếu, triển khai chậm tiến độ. Tỉnh có địa bàn rộng, dân số đông, nhu cầu nguồn lực cho đầu tư, hiện đại hóa hạ tầng năng lượng là rất lớn, trong khi khả năng bố trí ngân sách và thu hút vốn còn hạn chế; công tác giải phóng mặt bằng nhiều nơi còn khó khăn dẫn đến tiến độ thực hiện các dự án kéo dài.

II. Giải pháp phát triển năng lượng trên địa bàn tỉnh Thanh Hóa

Để thực hiện mục tiêu đến năm 2030, Thanh Hóa là một trong những trung tâm lớn của vùng Bắc Trung Bộ và cả nước về công nghiệp năng lượng theo tinh thần Nghị quyết số 58-NQ/TW của Bộ Chính trị; trở thành một cực tăng trưởng mới cùng với Hà Nội, Hải Phòng và Quảng Ninh tạo thành tứ giác phát triển ở phía Bắc của Tổ quốc, trong thời gian tới, tỉnh Thanh Hóa sẽ tập trung đề ra một số giải pháp trọng tâm để triển khai thực hiện như sau:

Trung tâm điều khiển của Nhà máy Nhiệt điện Nghi Sơn 2. Ảnh: LVC

Một là, tiếp tục tổ chức triển khai thực hiện có hiệu quả các chủ trương, nghị quyết của Đảng, chính sách, pháp luật của Nhà nước và của Tỉnh về phát triển năng lượng, trọng tâm là: Nghị quyết số Nghị quyết số 55-NQ/TW ngày 11/02/2020 của Bộ Chính trị về định hướng chiến lược phát triển năng lượng quốc gia Việt Nam đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2045; Nghị quyết số 140/NQ-CP ngày 02/10/2020 của Chính phủ ban hành Chương trình hành động thực hiện Nghị quyết số 55-NQ/TW của Bộ Chính trị; Quyết định số 893/QĐ-TTg ngày 26/7/2023, số 338/QĐ-TTg ngày 24/4/2024 của Thủ tướng Chính phủ về phê duyệt Quy hoạch và Kế hoạch thực hiện Quy hoạch tổng thể về năng lượng quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Hai là, tập trung rà soát, tháo gỡ khó khăn, vướng mắc, “điểm nghẽn” đẩy nhanh tiến độ, sớm hoàn thành các dự án năng lượng đang triển khai thực hiện, nhất là Dự án Thủy điện Hồi Xuân, Dự án Nhà máy Điện mặt trời Thanh Hóa I, Dự án Nhiệt điện Công Thanh (chuyển đổi sử dụng nhiên liệu LNG)…; hoàn thành lựa chọn nhà đầu tư, triển khai thực hiện Dự án Nhà máy điện khí LNG Nghi Sơn. Hỗ trợ, tạo điều kiện để Nhà máy lọc hóa dầu Nghi Sơn đầu tư mở rộng quy mô sản xuất, đổi mới công nghệ để nâng cao hiệu quả sản xuất và triển khai giai đoạn 2 Dự án Lọc hóa dầu Nghi Sơn. Tập trung rà soát, kiến nghị cấp có thẩm quyền bổ sung Đề án điều chỉnh Quy hoạch điện VIII danh mục các dự án nguồn điện với quy mô tổng công suất khoảng 10.000 MW, tạo cơ sở cho việc huy động hiệu quả các nguồn tài nguyên, phát triển đa dạng các loại hình năng lượng.

Ba là, tiếp tục đẩy mạnh cải cách hành chính, cải thiện mạnh mẽ môi trường đầu tư kinh doanh, tạo lập môi trường thuận lợi, minh bạch; công khai quy hoạch, danh mục các dự án đầu tư, xoá bỏ mọi rào cản để thu hút, khuyến khích tư nhân tham gia đầu tư, phát triển các dự án năng lượng. Đổi mới, nâng cao hiệu quả xúc tiến đầu tư theo hướng trọng tâm, trọng điểm; thu hút có chọn lọc các dự án quy mô lớn, giá trị gia tăng cao, công nghệ hiện đại, tiêu thụ ít năng lượng, thân thiện với môi trường, có sức lan tỏa mạnh trong lĩnh vực công nghiệp năng lượng để tạo động lực mới cho tăng trưởng kinh tế. Ưu tiên kêu gọi đầu tư xây dựng Kho dự trữ dầu thô quốc gia tại Nghi Sơn (công suất 1 triệu tấn) và Kho dự trữ LNG (công suất 0,5 - 3 triệu tấn) trên địa bàn tỉnh theo Quy hoạch hạ tầng dự trữ, cung ứng xăng dầu, khí đốt quốc gia thời kỳ 2021 - 2030, tầm nhìn đến năm 2050.

Bốn là, đẩy mạnh công tác chuyển đổi số trong lĩnh vực năng lượng; phối hợp với các Bộ, ngành Trung ương phát triển thị trường năng lượng đồng bộ, liên thông giữa các phân ngành điện, than, dầu khí và năng lượng tái tạo, kết nối với thị trường khu vực và thế giới. Khuyến khích doanh nghiệp tăng cường đầu tư cho nghiên cứu và phát triển lĩnh vực năng lượng; đẩy mạnh ứng dụng kết quả đề tài nghiên cứu khoa học vào thực tiễn.

Năm là, thực hiện rà soát lĩnh vực sản xuất tiêu thụ năng lượng trên địa bàn tỉnh để có các giải pháp sử dụng năng lượng tiết kiệm và hiệu quả; có cơ chế, chính sách khuyến khích các ngành, lĩnh vực sử dụng nhiều năng lượng đổi mới công nghệ, thiết bị nhằm tiêu thụ ít năng lượng; khuyến khích các hộ tiêu thụ sử dụng năng lượng sạch, năng lượng tái tạo, nhất là trong công nghiệp và giao thông; từng bước chuyển đổi năng lượng xanh, giảm phát thải đối với phương tiện giao thông phù hợp với thực tiễn tại địa phương./.


[1] Có 06 kho đang hoạt động, gồm: Kho chứa của Nhà máy Lọc dầu Nghi Sơn 570.000 m3; Kho đầu mối ngoại quan Nghi Sơn 165.200 m3; Kho xăng dầu Nghi Sơn PVOil 20.000 m3; Kho xăng dầu Lễ Môn 3.900 m3; Kho xăng dầu Quân đội tại sân bay Thọ Xuân 2.400 m3; Kho xăng SKYPEC sân bay Thọ Xuân 1.000 m3. Có 03 kho đã dừng hoạt động, gồm: Kho xăng dầu Đình Hương 14.850 m3; kho xăng dầu Cảng Lễ Môn 4.400 m3; kho xăng dầu Quảng Hưng 3.100 m3

[2] Gồm: Kho xăng dầu Hương Xuân tại Cảng Lễ Môn 4.900 m3 và 04 kho xăng dầu được quy hoạch đầu tư, xây dựng mới tại KKT Nghi Sơn: Kho xăng dầu Petrolimex Thanh Hóa 37.200 m3; Kho xăng dầu Hải Hà 52.600 m3; Tổng kho xăng dầu Hưng Yên - Nghi Sơn 50.000 m3; Kho xăng dầu Long Hưng - Nghi Sơn 17.200 m3.

[3] Gồm: 24 dự án thủy điện (982,2 MW); 03 dự án nhiệt điện (2.400 MW); 01 dự án nhiệt điện khí LNG (1.500 MW); 03 dự án điện mặt trời (235 MW); 02 dự án điện gió (300 MW), 03 dự án điện rác (50 MW); 01 dự án điện sinh khối (18 MW); 02 dự án phát điện tận dụng nhiệt dư của các nhà máy xi măng (32 MW).

[4] Gồm: 13 nhà máy thủy điện (610,6 MW); 02 nhà máy nhiệt điện với (1.800 MW); 01 nhà máy điện mặt trời Yên Định (30 MW); 01 nhà máy điện sinh khối Lam Sơn (33,2 MW).

[5] Giai đoạn 2021 đến nay, UBND tỉnh đã trình Bộ Công Thương bổ sung quy hoạch Dự án thủy lợi – thủy điện Tén Tằn (12 MW) và điều chỉnh quy hoạch dự án thủy điện Sông Âm (14 MW).

[6] Gồm: TĐ Cửa Đạt (97 MW), TĐ Trung Sơn (260 MW), TĐ Bá Thước 1 (60 MW), TĐ Bá Thước 2 (80 MW), TĐ Thành Sơn (30 MW), TĐ Cẩm Thủy 1 (28,8 MW), TĐ Dốc Cáy (15 MW), TĐ Bái Thượng (6 MW), TĐ Xuân Minh (15 MW), TĐ Trí Năng (5,4 MW), TĐ Trung Xuân (10,5 MW).

[7] Gồm: TĐ Hồi Xuân (102 MW), TĐ Sông Âm (14 MW), Thủy điện - Thủy lợi Tén Tằn (12 MW).

[8] Gồm: Tiềm năng TĐ Trung Sơn MR (130 MW), TĐ Cẩm Thủy 2 (38 MW), TĐ Mường Mìn (13 MW), TĐ Sơn Điện (13 MW), TĐ Nam Động 1 (12 MW), TĐ Nam Động 2 (12 MW), TĐ Xuân Khao (7,5 MW), TĐ Bản Khả (7 MW), TĐ Sơn Lư (7 MW), TĐ Tam Thanh (7 MW).

[9] Là một trong 3 dự án công nghiệp lớn nhất cả nước, gồm: Dự án của công ty Samsung khoảng 12 tỉ USD; Dự án liên hợp gang thép và cảng nước sâu Sơn Dương (Formosa Hà Tĩnh) khoảng 10 tỉ USD; Dự án lọc hóa dầu Nghi Sơn 9,3 tỉ USD.

[10] Dự án Thủy điện Hồi Xuân; Dự án Nhiệt điện Công Thanh; Dự án Điện mặt trời Thanh Hóa 1; Điện mặt trời Kiên Thọ…