(Thanhhoa.dcs.vn): Vừa qua, Tỉnh ủy Bình Định đã mời Ban Thường vụ Tỉnh ủy Thanh Hoá tham luận tại Hội thảo “300 ngày cán bộ, chiến sĩ, đồng bào và học sinh miền Nam hoàn thành việc chuyển quân tập kết ra Bắc tại Quy Nhơn”. Cổng thông tin điện tử Tỉnh ủy Thanh Hóa giới thiệu nội dung bài tham luận với chủ đề: “Thanh Hóa tiếp nhận, giúp đỡ cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc tại Quy Nhơn, Bình Định - 70 năm nghĩa nặng, tình sâu”.
Tàu trở đồng bào miền Nam tập kết ra bắc tại Cảng Hới, phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn. Ảnh: Tư liệu
Tỉnh Thanh Hóa nằm ở cực Bắc Trung Bộ, với diện tích tự nhiên trên 11.120 km2 (đứng thứ 5 cả nước), dân số trên 3,74 triệu người (đứng thứ 3 cả nước); có 102 km bờ biển, 213,6 km đường biên giới giáp với tỉnh Hủa Phăn (nước CHDCND Lào). Đảng bộ tỉnh có 31 đảng bộ trực thuộc, 1.378 tổ chức cơ sở đảng với trên 240.000 đảng viên.
Trong dòng chảy lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam, Thanh Hóa có vị trí chiến lược quan trọng cả về chính trị, quân sự, ngoại giao và kinh tế. Trong những năm đầu thế kỷ XX, dưới ách áp bức, bóc lột tàn bạo của thực dân Pháp và chế độ phong kiến tay sai, Nhân dân Thanh Hóa cùng với cả nước đã sớm vùng lên đấu tranh giành độc lập dân tộc, xây dựng cuộc sống tự do, ấm no, hạnh phúc. Thanh Hóa trở thành một trong những cái nôi của phong trào yêu nước và cách mạng, nơi quy tụ, hun đúc và lan tỏa mạnh mẽ tinh thần đấu tranh bất khuất. Ngày 29 tháng 7 năm 1930, chỉ thời gian ngắn sau khi Đảng Cộng sản Việt Nam ra đời, Đảng bộ tỉnh Thanh Hóa được thành lập, đánh dấu một bước ngoặt có ý nghĩa lịch sử to lớn trên con đường cách mạng của Đảng bộ và Nhân dân trong tỉnh.
Dưới sự lãnh đạo trực tiếp của Đảng bộ tỉnh, phong trào cách mạng ở Thanh Hóa đã phát triển mạnh mẽ, hòa cùng khí thế sục sôi của dân tộc, góp phần làm nên thắng lợi vang dội của Cách mạng Tháng Tám năm 1945, giành chính quyền về tay Nhân dân, mở ra kỷ nguyên độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội trên đất nước ta. Trong kháng chiến chống thực dân Pháp, Thanh Hóa đã phát huy vai trò là hậu phương lớn, cung cấp sức người, sức của cho kháng chiến. Dưới sự lãnh đạo của Đảng bộ tỉnh, quân và dân Thanh Hóa quyết đem tất cả tinh thần, nghị lực, máu xương, tài sản để chi viện cho tiền tuyến. Nhiều phong trào thi đua sản xuất, chiến đấu, bảo đảm giao thông, tiếp tế cho chiến trường đã diễn ra sôi nổi trên toàn tỉnh, góp phần quan trọng vào thắng lợi chung của cả nước, mà đỉnh cao là Chiến thắng Điện Biên Phủ “Lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu”, được Chủ tịch Hồ Chí Minh ghi nhận, biểu dương: “Tiếng Điện Biên Phủ đến đâu, đồng bào Thanh Hóa cũng có một phần vinh dự đến đó” - một lời khẳng định đầy tự hào, làm rạng danh truyền thống yêu nước, cách mạng và tinh thần quật cường của quê hương Xứ Thanh, góp phần tô thắm “Vành hoa đỏ”, viết tiếp những trang “Thiên sử vàng” chói lọi trong lịch sử dựng nước và giữ nước của dân tộc Việt Nam.
Thắng lợi của Chiến dịch Điện Biên Phủ có ý nghĩa lịch sử to lớn, mang tầm thời đại sâu sắc, buộc thực dân Pháp phải ký kết Hiệp định Giơ-ne-vơ về đình chỉ chiến tranh, khôi phục hòa bình ở Việt Nam và các nước Đông Dương. Vĩ tuyến 17, dòng sông Bến Hải đã trở thành ranh giới quân sự chia cắt hai miền Nam - Bắc. Miền Bắc được hòa bình, bước vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội; miền Nam tiếp tục cuộc đấu tranh thống nhất nước nhà.
Khu lưu niệm đồng bào miền Nam tập kết ra Bắc tại phường Quảng Tiến, thành phố Sầm Sơn. Ảnh: LVC
Vào thời điểm lịch sử đầy biến động của dân tộc, khi đất nước tạm thời bị chia cắt, Thanh Hóa đã vinh dự là địa phương đầu tiên của miền Bắc được Trung ương Đảng, Chính phủ và Bác Hồ tin tưởng giao trọng trách đón tiếp đồng bào, cán bộ, chiến sĩ và học sinh miền Nam tập kết ra Bắc. Đây không chỉ là nhiệm vụ chính trị, mà còn là niềm tự hào lớn lao, là minh chứng cho vị thế, tinh thần cách mạng và truyền thống yêu nước của nhân dân xứ Thanh. Trong suốt quá trình diễn ra cuộc chuyển quân 300 ngày lịch sử, thị xã Quy Nhơn, tỉnh Bình Định là một trong bốn địa điểm tập kết trọng yếu ở miền Nam[1]. Nơi đây đã trở thành điểm hội tụ của hơn 20.000 cán bộ, chiến sĩ, học sinh và đồng bào vùng Liên khu V, tập trung chuẩn bị cho hành trình vượt biển ra miền Bắc. Với vị trí chiến lược, cảng biển Quy Nhơn đã gánh vác vai trò đầu mối trung chuyển, là nơi ghi dấu những cuộc chia ly đầy nước mắt, nhưng cũng thấm đẫm tinh thần kiên trung, son sắt của Nhân dân miền Trung ruột thịt.
Mặc dù còn nhiều khó khăn, thiếu thốn, do bị chiến tranh và thiên tai tàn phá nặng nề, nhiều huyện trong Tỉnh bị đói gay gắt. Song, với trách nhiệm trước Trung ương Đảng và tinh thần “Tất cả vì miền Nam ruột thịt”, Đảng bộ, quân và dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa vừa tập trung khôi phục cơ sở hạ tầng sau chiến tranh, đẩy mạnh sản xuất, vừa khẩn trương chuẩn bị lương thực, thực phẩm, nhu yếu phẩm và những điều kiện cần thiết để đón đồng bào miền Nam tập kết.
Ngày 25/9/1954 - một mốc son trong lịch sử dân tộc - con tàu đầu tiên từ miền Nam cập bến cửa biển Lạch Hới - Sầm Sơn, mang theo những người con thân yêu của Tổ quốc, được đón chào trong vòng tay yêu thương của hàng ngàn người dân xứ Thanh. Chỉ trong 9 tháng (từ tháng 9 năm 1954 đến tháng 5 năm 1955), tỉnh Thanh Hóa là địa phương đón số lượng đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam nhiều nhất cả nước với 47.346 cán bộ, bộ đội, 1.869 thương bệnh binh, 5.922 học sinh và 1.443 gia đình cán bộ miền Nam tập kết; trong đó có nhiều con em của quê hương Bình Định - những người mang theo ký ức sâu đậm về vùng đất võ anh hùng, mang theo cả niềm tin và ý chí sắt đá của người miền Trung kiên cường vượt biển ra Bắc.
Trong thời gian ấy, Thanh Hóa đã thành lập hàng chục trạm đón tiếp, xây dựng nhiều bệnh viện, trạm xá tại Sầm Sơn, huyện Hoằng Hóa, huyện Thiệu Hóa, để tổ chức khám chữa bệnh, chăm sóc sức khỏe cho đồng bào ngay từ những ngày đầu đặt chân trên đất Bắc. Trên khắp mọi miền xứ Thanh, phong trào quyên góp ủng hộ đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam diễn ra sôi nổi; chuẩn bị nhiều tấn lương thực, thực phẩm; cung cấp hàng chục ngàn bộ quần áo, chăn màn và các điều kiện cần thiết khác; các huyện miền núi ngày đêm vận chuyển hàng vạn cây luồng, nứa, gỗ… để xây dựng nhà cửa, lán trại, giúp đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam nhanh chóng ổn định cuộc sống[2].
Để đảm bảo sức khỏe cho đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam ra tập kết ngay từ những ngày đầu, Trung ương đã giao cho Thanh Hóa xây dựng một bệnh viện tranh tre nứa lá quy mô 800 giường bệnh do Bộ Y tế quản lý, có sự hỗ trợ kỹ thuật của Bệnh viện đa khoa tỉnh. Thực hiện chỉ đạo của Tỉnh ủy, Ty Y tế Thanh Hóa đã thành lập ở Sầm Sơn 01 trạm cấp cứu và 02 trạm khám sức khỏe ở 02 xã Hoằng Lộc, Hoằng Quang (huyện Hoằng Hóa). Bệnh xá ở xã Thiệu Đô (huyện Thiệu Hóa) khám chữa bệnh cho các đồng chí, đồng bào miền Nam bị thực dân cầm tù, tra tấn ở nhà lao Chí Hòa và chữa bệnh cho các cháu thiếu nhi ra Bắc học tập.
Sau công tác đón tiếp an toàn và chu đáo, đồng bào, cán bộ, chiến sĩ, học sinh miền Nam tập kết ra Bắc được đưa đến nhiều tỉnh, thành của miền Bắc, như: Hà Nội, Ninh Bình, Nam Định, Hà Nam, Thái Bình, Hải Phòng… để lao động, học tập và công tác. Những người ở lại, được Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân Thanh Hóa hết lòng chăm sóc, nuôi dưỡng, giúp đỡ, ổn định cuộc sống; nhiều cụ già, cháu nhỏ được các gia đình quê hương Thanh Hóa nuôi dưỡng, đùm bọc, “nhường cơm, sẻ áo”, dành những gì tốt nhất, bằng tất cả tấm lòng và tình cảm thân thương, ruột thịt. Trong đó, có 2.631 em học sinh được bố trí về 12 trường tại 09 xã ở huyện Quảng Xương để tiếp tục học tập; 1.743 công nhân viên và 90 gia đình bộ đội, cán bộ được phân công về các địa phương trong tỉnh, bố trí việc làm, tiếp tục học tập, công tác, đóng góp công sức vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Tỉnh Thanh Hóa đã xây dựng Trường học sinh miền Nam số 9 tại xã Quảng Ngọc, huyện Quảng Xương. Nhiều cán bộ, chiến sĩ miền Nam tập kết đã xung kích đi đầu xây dựng 12 nông, lâm trường quốc doanh tại các địa phương, tiêu biểu như nông trường: Sông Âm, Lam Sơn, Thống Nhất, Hà Trung, Vân Du, Thạch Thành, Thạch Quảng, Yên Mỹ… Nhiều cơ quan, xí nghiệp, nhà máy, nông lâm trường trên địa bàn tỉnh được cán bộ, chiến sĩ và các gia đình miền Nam tập kết lựa chọn là nơi công tác, sinh sống, học tập, làm việc và gắn bó lâu dài, coi Thanh Hóa như quê hương thứ hai của mình, trở thành một phần máu thịt của quê hương Thanh Hóa.
Đáp lại nghĩa tình sâu nặng của Nhân dân Thanh Hóa nói riêng và Nhân dân miền Bắc nói chung, đồng bào, cán bộ, chiến sĩ và học sinh miền Nam, trong đó có những người con Bình Định đã coi miền Bắc, tỉnh Thanh Hóa như quê hương thứ hai của mình. Từ tấm lòng yêu thương, đùm bọc chan chứa nghĩa tình của Nhân dân miền Bắc, đồng bào miền Nam đã tìm thấy hơi ấm, niềm tin, sức mạnh để vượt qua khó khăn, gian khổ. Trên mảnh đất nghĩa tình Thanh Hóa, đồng bào miền Nam đã miệt mài học tập, rèn luyện, hăng say lao động, góp sức mình vào công cuộc xây dựng chủ nghĩa xã hội ở miền Bắc. Nhiều người sau khi phục hồi sức khỏe, hoàn thành học tập và huấn luyện, đã tình nguyện lên đường nhập ngũ, trở về miền Nam trong khói lửa chiến tranh, kề vai sát cánh cùng đồng chí, đồng đội trên khắp các chiến trường, chiến đấu anh dũng, hy sinh vì lý tưởng giải phóng dân tộc. Cũng từ những mái trường trên quê hương xứ Thanh và nhiều tỉnh thành miền Bắc, những thế hệ học sinh miền Nam tập kết đã lớn lên trong tình yêu thương của Nhân dân, sự chăm lo của Đảng và Nhà nước. Họ đã không ngừng trưởng thành, trở thành những cán bộ lãnh đạo cao cấp của Đảng, Nhà nước và các địa phương, những tướng lĩnh quân đội, công an, những nhà giáo, bác sĩ, nhà khoa học, doanh nhân, văn nghệ sĩ… mang khát vọng cống hiến, tiếp nối sứ mệnh xây dựng và bảo vệ quê hương, đất nước. Mỗi bước trưởng thành của họ là một lời tri ân sâu sắc gửi đến quê hương thứ hai - miền Bắc nghĩa tình, gửi đến Nhân dân Thanh Hóa - những người đã mở rộng vòng tay, san sẻ cơm ăn áo mặc, dành trọn trái tim để chở che, nuôi dưỡng những hạt giống của cách mạng trong những tháng năm đầy thử thách, gian nan mà vô cùng cao đẹp.
Tượng đón tiếp đồng bào miền Nam tại Khu lưu niệm thành phố Sầm Sơn. Ảnh: LVC
Sự kiện tập kết ra Bắc trong những năm 1954-1955 là một cuộc chuyển dịch lực lượng có ý nghĩa lịch sử đặc biệt to lớn, mang tầm chiến lược sâu sắc của Trung ương Đảng và Chủ tịch Hồ Chí Minh. Đó không chỉ là một quyết sách về quân sự - chính trị, mà còn là minh chứng sinh động cho sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc, thể hiện tinh thần “một ý chí, một lòng tin” giữa Nhân dân hai miền Nam - Bắc. Trong thử thách cam go, cả dân tộc đã cùng nhau vượt qua gian khổ, tiếp tục kiên cường chiến đấu và xây dựng, viết nên những trang sử hào hùng trong sự nghiệp đấu tranh giành độc lập, thống nhất đất nước. Nghĩa tình sâu nặng, lòng nhân ái, sự sẻ chia đùm bọc của Nhân dân miền Bắc, trong đó có Nhân dân Thanh Hóa dành cho đồng bào, cán bộ, chiến sĩ và học sinh miền Nam tập kết, đặc biệt là con em quê hương Bình Định, đã thắp sáng thêm một biểu tượng cao đẹp, sáng ngời về tình nghĩa ruột thịt Bắc - Nam. Những bữa cơm sẻ nửa, manh áo nhường nhau, những căn nhà tập thể, những lớp học tại Trường học sinh miền Nam tại Thanh Hóa… tất cả đã kết tinh thành sức mạnh tinh thần to lớn, góp phần làm nên những chiến công vang dội và bồi đắp nên bản lĩnh Việt Nam trong suốt hành trình cách mạng. Một lần nữa, chân lý “Bắc - Nam một nhà”, “Nước Việt Nam là một, dân tộc Việt Nam là một” lại được khẳng định bằng chính sự hy sinh, bằng tình thương và lòng thủy chung son sắt giữa những con người đất Việt. Đó cũng chính là bài học lịch sử sâu sắc, là kinh nghiệm quý báu về sức mạnh của khối đại đoàn kết toàn dân tộc - nhân tố quyết định mọi thắng lợi của cách mạng Việt Nam, cả trong quá khứ, hiện tại và tương lai.
Trong thời kỳ đổi mới, hội nhập và phát triển, ý nghĩa và những bài học lịch sử sâu sắc từ Sự kiện tập kết ra Bắc năm 1954-1955 vẫn vẹn nguyên giá trị, trở thành nguồn động lực tinh thần to lớn, tiếp thêm sức mạnh cho toàn Đảng, toàn dân, toàn quân ta thực hiện thắng lợi sự nghiệp công nghiệp hóa, hiện đại hóa đất nước, vững vàng tiến vào kỷ nguyên mới - kỷ nguyên vươn mình của dân tộc, để cùng nhau hiện thực hóa khát vọng phát triển, hội nhập và khẳng định vị thế dân tộc trên trường quốc tế. Đảng bộ, chính quyền và Nhân dân các dân tộc tỉnh Thanh Hóa nguyện đoàn kết, chung sức đồng lòng, phát huy cao độ những bài học quý từ Sự kiện tập kết ra Bắc để vận dụng sáng tạo vào thực tiễn; quyết tâm xây dựng Thanh Hóa trở thành tỉnh giàu đẹp, văn minh, hiện đại, phát triển toàn diện và “kiểu mẫu” như sinh thời Bác Hồ kính yêu hằng mong muốn./.